Để đẩy mạnh chi tiêu ròng của nền kinh tế một quốc gia, Chính phủ sẽ sử dụng biện pháp kích cầu để làm tăng tổng cầu, kích thích phát triển kinh tế. Đó cũng là biện pháp được những quốc gia lớn như Mỹ, Trung Quốc, Anh…các nước đang phát triển khác sử dụng, trong đó có Việt Nam. Vì vậy hãy cùng chúng tôi đi so sánh chính sách kích cầu của Việt Nam Trung Quốc và Mỹ năm 2009 để thấy sự biến đổi nền kinh tế như thế nào nhé!
Như thế nào là chính sách kích cầu?
Trong tiếng Anh, Chính sách kích cầu là Pump priming. Đó là một khoản chi tiêu của Chính phủ được hoạch định để kích thích sự tăng tổng cầu, và thông qua hiệu ứng nhân tử, cơ chế tăng tốc để tạo nên được mức tăng trưởng lớn hơn so với thu nhập quốc dân.
Chính sách kích cầu được thể hiện rõ nhất khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Lúc đó Chính phủ không phải tăng chi tiêu đến mức cao nhất để bù lại mức thâm hụt sản lượng mà thay vào đó là tăng chi tiêu đến mức đủ để tạo ra làn sóng ổn định hơn trong nền kinh tế.
Có thể nói chính làn sóng lạc quan, ổn định này sẽ làm cho khu vực tư nhân chi tiêu nhiều hơn và giúp nền kinh tế đi tới trạng thái cân bằng hơn.
So sánh chính sách kích cầu của Việt Nam, Mỹ và Trung Quốc năm 2009
Năm 2008, thế giới rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất trong lịch sử, và bắt đầu dưới khủng hoảng cho vay địa ốc chuẩn của Mỹ nhưng lý do sâu xa hơn lại là do sự mất cân bằng quốc tế. Từ đó lan rộng ra toàn thế giới, trong đó chịu ảnh hưởng có cả Việt Nam và Trung Quốc.
Chính sách kích cầu kinh tế của Mỹ.
Khi gói kích cầu của khối Anh-Mỹ đời sau một gói cứu trợ ngành ngân hàng và cuộc khủng hoảng bắt đầu từ các nước phát triển. Bắt buộc phải lựa chọn giải pháp ứng cứu ngành kinh doanh bị tổn thất nặng nề trước sau đó giảm nhẹ sự lây lan.
Sau khi bình thường hóa được hoạt động của khối ngân hàng, Mỹ bắt đầu gói kích thích kinh tế. Đặc điểm của chính sách kích thích này là nhắm vào kích thích nhu cầu tiêu dùng nội địa, chú trong miễn giảm nhiều loại thuế như: thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng….
Chính sách kích cầu kinh tế ở Trung Quốc.
Kích cầu của Trung Quốc được thực hiện như một chương trình tái thiết hệ thống cơ sở hạ tầng khổng lồ. Phần lớn nhất được Ngân hàng Thế giới (WB) ước tính khoảng 586 tỉ đô la Mỹ tương đương 12% GDP năm 2009 của Trung Quốc. Và mục đích là nhắm vào xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông, xây dựng lại hạ tầng nông thôn, tái thiết sau động đất….
Phần còn lại của gói kích cầu sẽ dùng cải thiện công nghệ, hệ thống y tế, xây dựng nhà ở, năng lượng và môi trường. Ngoài ra, gói kích cầu này không đi trực tiếp hỗ trợ doanh nghiệp, nhưng cũng không trực tiếp vào tăng sức cầu nội địa. Mà để chi tiêu cho các dự án hạ tầng lớn, lợi ích sẽ chuyển nhanh vào các doanh nghiệp.
Chính sách kích cầu của Việt Nam.
Gói kích cầu kinh tế của Việt Nam nằm ở hai gói hỗ trợ lãi suất. Nhìn chung thì gói hỗ trợ kích cầu của Việt Nam cũng có điểm tương đồng với gói kích cầu phương Tây chính là việc hỗ trợ thuế.
Mặc dù không chỉ rõ ràng nhưng một phần gói hỗ trợ của Việt Nam nhắm vào một số loại cơ sở hạ tầng, hay năm 2010 tạm ứng ngân sách cho một số dự án, chuyển nguồn đầu tư sang năm 2009.
Trong đó đặc điểm đáng chú ý nhất của gói kích cầu này chính là kết hợp chi tiêu để trợ giá với chính sách tiền tệ . Xem như đã giảm lãi suất thực hiệu lực của các khoản vay từ doanh nghiệp đi 4% và một chính sách giảm lãi suất trong khu vực kinh doanh chứ không phải là toàn bộ nền kinh tế . Đồng thời tiền hỗ trợ lãi suất lấy từ dự trữ ngoại hối chứ không phải lấy từ ngân sách.
Mô hình này của Việt Nam còn đáng chú ý ở việc Chính phủ vay nợ thương mại 1 tỷ đô la Mỹ qua việc phát hành trái phiếu quốc tế, sau đó phân bổ lại cho khu vực doanh nghiệp nhà nước. Biện pháp này gây ra hệ lụy hỗ trợ lãi suất nhiều tầng cho các doanh nghiệp nhà nước.
Nhìn chung, chính sách kích cầu của các nước trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế năm 2009 cho tới nay vẫn gây nhiều tranh cãi. Vì vậy với việc đưa ra những sự so sánh chính sách kích cầu của Việt nam Trung quốc và Mỹ trên đây sẽ giúp ích được cho những ai khi cần tới.